Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

CÁC CÁCH HÓA GIẢI THEO BÁT TRẠCH MINH CẢNH


– Hai căn nhà có cửa chính xung đối nhau :

Theo Phong Thuỷ, nếu hai nhà có cửa chính xung đối sẽ làm cho khí nhà này xung thẳng vào cửa nhà kia nên chắc chắn sẽ có một nhà bị xấu. Để khắc phục có thể dùng gương Bát Quái hoặc chuông gió treo ở cửa. Gương trong Phong Thuỷ có tác dụng phản xạ lại luồng khí bay tới, nhưng việc sử dụng gương phải hết sức cẩn thận, không được sử dụng bừa bãi vì gương có thể phạn xạ cả cát khí.

Ngoài ra để hoá giải hung khí có thể dùng đôi con nghê, tượng Quan Công, tượng Phật Bà để trấn ở cửa hoặc dùng các loại cầu thuỷ tinh treo để hoá giải.

– Nhà ở có đường đâm thẳng vào nhà :

Nếu có con đường đâm thẳng vào nhà thì hung khí sẽ dội thẳng vào nhà. Ở nhà này không yên ổn dễ sinh thị phi bệnh tật, hao tổn tài lộc. Để khắc phục có thể dùng gương Bát Quái hoặc xây tường cao để chắn. Ngoài ra để hoá giải hung khí có thể dùng đôi con nghê, tượng Quan Công, tượng Phật Bà để trấn ở cửa.

– Nhà ở có dốc cao chạy thẳng vào nhà :

Nếu có dốc cao chạy thẳng vào nhà thì khí sẽ xung thẳng vào nhà hoặc khí đổ thẳng ra đường. Khí vận chuyển trong ngôi nhà cũng như mạch máu trong cơ thể, phải thu nạp sinh khí và xuất đi uế khí. Khí vận chuyển phải quanh co uốn lượn không được xộc thẳng vào hoặc xộc thẳng ra ngoài. Trường hợp này cần xây nhiều bậc lên xuống để giảm xung khí và treo rèm ở cửa ra vào. Dùng thêm chó đá, đôi con nghê, hoặc tượng Quan Công, tượng Phật Bà chế ở vị trí dốc cao đâm vào nhà.

– Nhà có cửa chính thông với cửa hậu :

Nếu cửa chính thông với cửa hậu và cửa giữa (nếu có) thì tạp thành thế ba cửa thông nhau. Khí vào sẽ bị thất tán hết, chủ tiền tài không vượng, hao tổn tiền tài, không cầm giữ được tài lộc. Trường hợp này cần sửa lại cửa hoặc đặt bình phong chắn ở giữa để cửa chính và cửa phụ không nhìn thấy nhau nữa. Dùng cầu thuỷ tinh treo ở vị trí thông giữa hai cửa, dùng tượng rùa đầu rồng hoặc tượng Tam Đa che chắn ở phía cửa phụ.

- Nếu cửa chính bị phạm hướng xấu thì dùng hướng bếp để khắc chế, cụ thể như sau :

+  Hướng cửa chính phạm Ngũ Quỷ thì đặt bếp hướng Sinh Khí

+ Hướng cửa chính phạm Tuyệt Mệnh thì đặt bếp hướng Thiên Y

+ Hướng cửa chính phạm Lục Sát thì đặt bếp hướng Phúc Đức

+ Hướng cửa chính phạm Hoạ Hại thì đặt bếp hướng Phục Vị

Ví dụ : Người sinh năm 1957- Đinh Dậu mệnh cung Đoài, cửa chính hướng Nam là Ly phạm Ngũ Quỷ. Vậy phải đặt bếp hướng Tây Bắc để chế vì Tây Bắc là Càn được Sinh Khí sẽ hoá giải được hướng cửa chính bị phạm.

– Gương trong phòng ngủ :

Gương trong Phong Thuỷ có tác dụng phản xạ lại các luồng hung khí chiếu đến. Việc sử dụng gương phải hết sức cẩn thận không được đặt bừa bãi. Trong phòng ngủ, khi nằm không nên nhìn thấy mình trong gương. Nếu nhìn thấy thì khí bị xung sát dễ gây nên mộng mị, ảnh hưởng sức khoẻ.

– Xà nhà chắn ngang giuờng ngủ hoặc bàn thờ, bếp :

Tại các vị trí đặt xà, khí của nó tương đối mạnh và thường là sát khí. Nếu giường ngủ đặt ngay dưới xà nhà hoặc dưới chân cầu thang thì vô cùng bất lợi. Cần khắc phục bằng cách kê giường chỗ khác hoặc dùng một trần gỗ hoặc giấy căng ngang phủ lấy xà nhà. Như vậy sẽ giảm bớt tác động xấu của xà. Điều này cũng áp dụng tương tự với bếp và bàn thờ.

– Trước nhà có căn nhà đổ nát :

Nếu đối diện nhà có căn nhà hoang tàn đổ nát thì hung khí của nó sẽ tác động ngay đến nhà mình và gây ra nhiều tác động xấu. Cần treo gương Bát Quái hoặc một chuông gió ở trước cửa để hoá giải hung khí do nhà đối diện mang lại. Có thể dùng tượng Quan Âm, Quan Công hoặc tượng Tam Đa để hoá giải hung khí.

– Trước nhà có 1 cây to hoặc cây khô trước nhà :

Phong Thuỷ tối kỵ có cây khô trước nhà, hoặc trước nhà có một cây to, gọi là độc mộc, chủ buồn khổ cô độc. Vì vậy cần chặt hết những cây khô trước nhà và không trồng duy nhất một cây to. Nếu có cây to và chưa chặt được thì dùng một đèn sáng trước cửa hoặc tranh thuộc Hoả nhiều màu đỏ treo trước cửa.

– Nhà ở đối diện đường vòng hoặc giao lộ :

Nếu ở đối diện đường vòng hoặc đối diện thì khí xung sát sẽ chiếu thẳng vào nhà. Sát khí làm hao tổn nhân đinh, gây thị phi bất hoà, ly tán gia đình, sát vợ hại con. Trường hợp trên chỉ dùng làm cơ sở kinh doanh không nên ở. Trước nhà nên dùng gương Bát Quái hoặc xây rào chắn. Có thể dùng chó, nghê, ruà đầu rồng, tượng Quan Công, Quan Âm,… để trấn áp, hoá giải luồng hung khí.

– Thiên Trảm Sát :

Phong Thuỷ tối kỵ trước nhà mình có một khe hở giữa hai nhà cao tầng chiếu thẳng vào nhà hoặc nhà bị kẹp giữa 2 nhà cao tầng gọi là “Thiên Trảm Sát” rất xấu cho ngôi nhà . Vì thế cần dùng một chuông gió treo trước nhà để hoá giải hung khí hoặc dùng một bể cá, một bình nước đặt ở trước nhà hoặc ở cửa sổ để tiết chế hung khí do Thiên Trảm Sát gây ra. Dùng các vật khí chế hoá bằng pha lê cũng phát huy tác dụng rất tốt. Cũng có thể đặt gương lên trên nóc nhà để tạo dòng đối lưu khí.

– Gian phòng khách bị lộ :

Nếu nhà gần đường đi lại mà người đi ngoài đường có thể nhìn thấy rõ phòng khách và những người ngồi trong nhà thì theo Phong Thuỷ điều đó rất bất lợi cho gia chủ. Gây nên chuyện thị phi, bất hoà, hao tán tài lộc. Hãy xây tường bao hoặc cổng, cửa, nếu không thể xây thì dùng mạnh hoặc rèm che khuất để người ngoài không thể nhìn trộm vào nhà. Dùng các vật khí trấn áp như rùa đầu rồng, nghê, tượng Quan Công, Đường Chu Quỳ trong phòng khách hướng ra cửa.

– Giường ngủ hoặc bàn đọc sách gần cửa sổ :

Nếu giường ngủ hoặc bàn làm việc, bàn đọc sách gần cửa sổ thì khí bên ngoài sẽ xung thẳng vào giường hoặc bàn, ảnh hưởng đến sức khoẻ và việc học hành và công việc. Khí đến giường ngủ cần yên tĩnh, kín đáo. Khí đến bàn làm việc, bàn đọc sách tránh phân tán. Vì thế, gặp trường hợp trên nên treo rèm trước cửa sổ hoặc đóng lại không sử dụng. Dùng thêm các vật khí lợi cho công danh thi cử như qủa cầu, cây tre, trúc, đôi ống sáo,….

– Giường ngủ hoặc bếp gần nhà vệ sinh :

Trong bài trí Phong Thủy tối kỵ nhà bếp hoặc giường ngủ sát ngay nhà vệ sinh. Uế khí của nhà vệ sinh sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và nguồn tài lộc của gia đình. Gặp trường hợp trên nhất thiết phải di chuyển giường và bếp, hoặc phá nhà vệ sinh đi không dùng nữa. Để khắc phục phải sử dụng các vật khí hỗ trợ sức khoẻ như Hồ Lô, Khánh Rồng,…

– Bàn thờ ở trên hoặc dưới nhà vệ sinh :

Hiện nay, ở các đô thị có rất nhiều nhà cao tầng và gian thờ thường đặt trên tầng thượng. Cần chú ý không để bàn thờ mà ở tầng dưới có nhà vệ sinh. Uế khí của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thờ cúng gia tiên, gây nên nhiều điều xấu cho gia chủ. Gặp trường hợp trên cần di chuyển bàn thờ ra vị trí khác hoặc đóng nhà vệ sinh lại không sử dụng nữa.

- Hoá giải Sao xấu chiếu đến cửa chính vào mỗi năm

Qua việc phân tích Phi Tinh Trạch Vận, quý vị đã hiểu được sự quan trọng về khí vận do các Phi Tinh đem lại. Nếu phi tinh chiếu ở cửa chính là tốt thì sẽ mang lại cát khí cho ngôi nhà, tăng vượng khí sẽ vượng nhân đinh và tài lộc. Trái lại, nếu gặp hung tinh chiếu thì gia chủ sẽ chịu nhiều tổn thất tuỳ bản chất từng sao chiếu vào, nhẹ thì thị phi, khẩu thiệt, nặng thì hao tài tốn của, tổn thất nhân đinh.

Ví dụ : năm Giáp Thân – 2004 các sao xấu là Tam Bích – hướng Đông, Ngũ Hoàng – trung tâm, Cửu Tử – hướng Nam, Nhị Hắc – hướng Tây Nam, Thất Xích – hướng Tây.

Sau đây là giải pháp hoá giải hung khí do các sao chiếu vào hướng cửa chính : Chủ yếu dùng các vật khí chế hoá và trấn yểm như cầu thuỷ tinh, chuông gió, tượng Quan Công, Tam Đa, Phật Bà, Rồng, Rùa,… Cụ thể phân định Ngũ Hành hoá giải cho các sao như sau :

Sao Ngũ Hoàng : Tối độc, mang hành Thổ. Vì vậy nếu sao này chiếu đến cửa chính thì tốt nhất nên dùng cổng, cửa bằng kim loại để tiết chế khí Thổ. Dùng 1 chuông gió treo trước cửa để tránh hung khí. Sơn cổng cửa màu trắng, tránh dùng màu đỏ, giảm việc sử dụng các loại đèn điện.

Sao Tam Bích : xấu, mang hành Mộc, chủ thị phi hao tán tài lộc. Nếu sao này chiếu hướng cửa chính thì cổng cửa sơn màu đỏ, dùng thảm đỏ trải cửa, dùng nhiều loại đèn điện ở cửa, tránh dùng các loại thuỷ, treo ở cửa một chuông gió để hoá giải hung khí.

Sao Thất Xích : rất xấu, mang hành Kim, chủ trộm cướp, hao tán tài lộc, công danh bế tắc. Nếu sao này chiếu hướng cửa chính thì cổng cửa sơn màu đen, dùng một bể nước hoặc bể cá cảnh to trước cửa trong thả 1 con cá màu đen, nếu không thì dùng một bình đựng nước muối. Tránh dùng các loại thuỷ tinh, treo ở cửa một chuông gió để hoá giải hung khí.

Sao Nhị Hắc : xấu, mang hành Thổ, chủ bệnh tật còn gọi là sao Bệnh Phù. Nếu sao này chiếu hướng cửa chính thì dùng cổng, cửa bằng kim loại để tiết chế khí Thổ. Dùng 1 chuông gió treo trước cửa để tránh hung khí. Sơn cổng cửa màu trắng, tránh dùng màu đỏ, giảm việc sử dụng các loại đèn điện.

- Màu sắc các phòng trong căn nhà không hợp lý

Việc bố trí màu sắc cho các phòng cần tuân thủ theo nguyên lý ngũ hành sinh khắc. Thường phòng ngủ tối kỵ màu tối, cần dùng các gam màu sáng, ấm áp để gợi cảm giác ấm cúng như màu hồng, giấc ngủ sẽ ngon hơn. Tránh treo các tranh ảnh gây cảm giác cô đơn buồn tẻ như cánh buồm cô độc chẳng hạn. Nên treo các tranh gợi cảm giác đoàn tụ sum họp.

Phòng ăn nên dùng gam màu vàng vì màu vàng thuộc Thổ sẽ hợp với một gian phòng ăn vì thức ăn và dạ dày thuộc Thổ.

Phòng khách nên bố trí màu sắc tươi sáng, hài hoà với nội thất sao cho màu tối và màu sáng cân bằng nhau, đó cũng là cái lý âm dương hài hoà.

Phòng học, phòng đọc sách nên bố trí nhiều màu xanh, nên trồng các loại cây xanh như trúc cảnh, hợp với sao Văn Xương chủ về công danh, thi cử.

Nên dùng các tranh Phong Thuỷ treo trong từng phòng

Sau đây là bảng màu hợp với bản mệnh của mỗi người :

Bản mệnh Màu sắc

Mộc Màu Xanh

Hoả Đỏ, Hồng

Thổ Vàng, Nâu

Kim Trắng, Bạc

Thuỷ Đen, Tím sẫm



Khóa học Phong thủy IEFA

Học phong thủy - Trường đào tạo phong thủy IEFA

Hoc phong thuy - Truong dao tao phong thuy IEFA

Ý nghĩa trên các tầng của La bàn

www.daihochcm.edu.vn


La bàn cho chúng ta biết hướng của trời đất, cũng như hướng của nhà ta vậy, ngoài việc đó ra, la bàn còn giúp cho chúng ta trong việc ứng dụng phong thuỷ vào thực tiễn.

Lý luận phong thủy cho rằng, mục tiêu chủ yếu chọn phương vị trạch là tìm khí và cân bằng âm dương, việc giám định phương vị phải tổng hợp năm sinh của người, lấy sinh, khắc, chế, hóa của âm dương ngũ hành và lấy biến của quẻ hào mà được mất cát hung. Nhiều nội dung ấy được phản ánh trên la bàn nhưng cũng có bộ phận không thể dung nạp trên la bàn được.

Đúng vậy, la bàn tập trung nhị khí âm dương, lý của bát quái ngũ hành, số của hà đồ lạc thư, đại thành về hình của thiên tinh quái tượng, nhưng phương pháp rất nhiều, chỉ nói riêng về ngũ hành đã có lão ngũ hành (còn có tên là chính ngũ hành) song sơn ngũ hành, tiểu huyền không ngũ hành, hồng phạm ngũ hành, tú sung ngũ hành, thực ra chỉ là sự sắp xếp khác nhau của 5 loại yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Còn bát quái lại có tiên thiên bát qiaus và hậu thiên bát quái.

Quan sát phương vị của sơn thủy cũng quan trọng như khảo sát hình thái của nó. Người ta có thể hoài nghi rằng từ phương vị, địa hình mà theo phép đo phong thủy có thể tìm ra đất phong thủy phú quý, cát lành hay không. Một vị sư tăng phong thủy ở Hán thành nói: Sơn thủy có hình thể đẹp thường đứng ở phương cát, vì rằng vật tụ theo loại là phép tắc phổ biến trong vũ trụ. Có thể hiểu cách giải thích này là nếu hình núi muốn sinh ra cát địa nó phải ở cát phương. Nói theo kinh nghiệm của ông, núi có hình thể không đẹp thông thường ở phương vị không cát lợi.

Tầm quan trọng của phương vị phong thủy được khái quát trong một câu phong thủy mà ai cũng biết: cát sơn từ cát vị, cát thủy hướng hung phương. Cát vị và hung phương chỉ có dùng la bàn mới trắc nghiệm được. Vì vậy cần phải thảo luận về tính chất và tác dụng của la bàn phong thủy.

La bàn phong thủy có nhiều loại, loại đơn giản chỉ có mấy vòng, loại kết cấu phức tạp có nhiều vòng. Số mục tầng vòng không bằng nhau chứng tỏ cách dùng mỗi vòng khác nhau, và chỉ có một vòng quan trọng nào đó ứng với một điểm quan trọng nào đó. Sự sai lệch này còn chứng tỏ thấy phong thủy dân gian muốn xác định trạch địa âm dương không cần phải định hướng tỉ mỉ.

Loại hình la bàn cũng quá nhiều, có loại chỉ 2-3 vòng, có loại nhiều tới 49 vòng. Nhưng nói chung, la bàn có thể phân thành hai dạng lớn: Một dạng vòng duyên hải và một dạng vòng nội địa. Dạng duyên hải láy Chương châu Phúc Kiến, Hưng Ninh Quảng Đông làm đại biểu, dạng nội địa lấy Tô Châu của Giang Tô, Hưu Ninh của An Huy làm đại biểu.

Tầng số 1 – Thiên trì

Trong thiên trì đặt Kim chỉ nam. Do việc lắp đặt Kim chỉ nam không giống nhau nên chia làm la bàn nước và la bàn khô. La bàn nước là một thanh từ đặt vào trong bụng một con cá gỗ, con cá gỗ này nổi trên nước chứa ở bàn, tự nhiên chuyển động chỉ về hướng Nam, bàn nước ấy được gọi là “Thiên trì”. Đó là Kim la bàn truyền thống của Trung Quốc. Lý luận phong thủy cho rằng Kim chỉ nam định Tý Ngọ, trong thiên trì chứa Kim và Thủy, động là dương, tĩnh là âm, như vậy “lưỡng nghi phán, tứ tượng phân, bát quái định” thì tìm ra bí ẩn của thiên địa, trên tìm ra sự sắp xếp của trăng sao, dưới quan sát được thời lưu của sơn thủy (theo La Kinh giải định của Hồ Quốc Trinh).

 Tầng số 2 – Tiên thiên bát quái

Tầng này chỉ có 8 quái. Căn cứ thứ tự sắp xếp khác nhau mà phân thành tiên thiên và hậu thiên. Theo truyền thuyết, Tiên thiên là Phục Hi sáng tạo ra, Hậu thiên là Chu Văn Vương làm ra. Bát quái dùng để chỉ vị trí của 8 phương, mỗi phương vị cách nhau 45°. Phương vị bát quái của Tiên thiên là: Càn Nam, Khôn Bắc, Li Đông, Khảm Tây, Chấn Đông Bắc, Đoài Đông Nam, Chấn Tây Nam, Cấn Tây Bắc.

Tầng số 3 – Hậu thiên bát quái

Phương vị của Hậu thiên bát quái là: Li Nam, Khảm Bắc, Chấn Đông, Đoài Tây, Tốn Đông Nam, Cấn Đông Bắc, Khôn Tây Nam, Càn Tây Bắc.

Tầng số 4 –   12 vị địa chi

Tầng này dùng 12 vị địa chi, Tý Sửu Dần Mão, Thìn Tỵ Ngọ Mùi, Thân Dậu Tuất Hợi biểu thị 12 phương vị, mỗi phương vị cách nhau 30°, Ngọ chỉ nam, Tý chỉ Bắc, Mão chỉ Đông, Dậu chỉ Tây.

Tầng số 5 – Tọa gia cửu tinh

Tọa gia là ý nói phương hướng, phương vị. Cửu tinh chỉ Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc, Phá quân, Tả phù, Hữu bâth, 7 thất tinh trước chỉ Bắc đẩu tinh. Hai tinh sau chỉ hai tinh ở bên nhìn không thấy khi di động, nhưng kho mắt thường nhìn thấy nó thì rất dễ phân biệt. Lý luận phong thủy cho rằng, thanh khí bốc lên mà thành tinh, trọc khí chìm xuống mà thành sơn xuyên, cho nên trên trời thành tượng, ở đất thành hình, dưới dọi lên 24 sơn. Tinh có xấu đẹp nên đất có cát hung. 9 tinh trên trời di động cảm ứng với địa phương nào thuộc về nó, gọi là nhị thập tứ sơn tức tứ duy, bát can, thập nhị chi là 24 phương vị. Cửu tinh phối hợp ngũ hành, trật tự của nhị thập tứ vị là: Cấn bính tham lang mộc, Tốn cân cự môn Thổ, Càn Giáp Lộc Tốn Thổ, Li Nhâm Dần Tuất văn khúc thủy, Chấn Canh Hợi Mùi liêm trinh Hỏa, Đoài Đinh Tỵ Sửu Vũ khúc Kim, Khảm Quý Thìn Phá quân Kim, Khốn Ất Phù bật Thổ Mộc.

Tầng số 6 – Tên nhị thập tinh

Tầng này là 24 thiên tinh phối hợp với 24 vị, giải thích quan niệm “thiên tinh hạ ứng”. Tổ hợp của 24 tinh và phương vị là: Thiên hoàng Hợi, Thiên phù Nhâm, Thiên điệp Tý, Âm quang Quý, Thiên trù Sửu, Thiên thị Cấn, Thiên lư Dần, Âm cơ Giáp, Thiên mệnh Mão, Thiên quan Ất, Thiên chính Thìn, Thái Ất Tốn, Thiên bình Tỵ, Thái vi Bính, Dương quyền Ngọ, Nam cực Đinh, Thiên hán Canh, Thiếu vi Dậu, Thiên Ất Tân, Thiên khôi Tuất, Thiên khái Càn, Thiên hoàng Tinh tại Hợi, Thượng ánh tử vi viên, tây ứng thiếu vi viên, bốn viên này là bậc tôn quý trong thiên tinh được gọi chung là “Thiên tinh tứ quý” Cấn, Bính, Dậu hợp “Tam cát”. Thái Ất ánh Tốn, Thiên Ất ánh Tân, Nam cực ánh Định, Tốn, Tân, Đinh hợp Cấn, Bính, Dậu gọi là “Lục Tú”. Thiên bình ánh Tỵ, là đối cung của Tử vi viên, gọi là Đế tọa minh đường. Tỵ, Hợi hợp “lục tú” lại gọi là “Bát quý”. Trong Tam cát, tứ quý, lục tú, bát quý, dương trạch đại vượng, nhân đinh phú quý trải xa, phát phúcl lâu dài.

Tầng số 7 – Kim chính của địa bàn

Trong la bàn có 3 kim 3 bàn tức địa bàn chính châm, thiên bàn phùng châm, nhân bàn trung châm, 3 bàn đều phân ra 24 cách, mỗi cách đều chiếm 15°, gọi là “nhị thập tứ sơn”. 24 phương vị là tên gọi hợp thành của 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) bát can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Thân, Nhâm, Quý) tứ duy (Càn quái, Cấn quái, Tốn quái, Khôn quái) Kim từ chỉ đúng chính ngọ gọi là chính châm, ở Nhâm Tý gặp Bính Ngọ gọi là Phùng châm, ở Tý Quý giữa Ngọ Đinh gọi là Trung châm.

Tầng số 8 – Tiết khí 4 mùa.

Tầng này thể hiện 24 tiết khí trong 1 năm tức Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Sương giáng, Lập Đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn. Lý luận phong thủy cho rằng dưới 24 sơn phân bố thành 24 tiết khí, Lập xuân bắt đầu từ Cấn, Đại hàn bắt đầu từ Sửu, mỗi khí phân thành 3 hậu thượng, trung, hạ cộng là 72 hậu, để nói rõ lý lẽ tiêu trưởng của âm dương, con số tiến thoái thuận nghịch, vạch rõ ngũ vận lục khí.

Tầng số 9 – Xuyên sơn thất thập nhị long

Tầng này dùng 60 Giáp Tý cộng thêm bát can tứ duy mà hợp thành 72 long, khởi Giáp Tý ở Nhâm Mùi của chính châm, 72 vị phân phối ở dưới 24 sơn, một sơn thống suất 3 long để ứng với 72 hậu của năm tháng. Thầy phong thủy thường dùng cách long của tầng này với 60 long thấu địa coi là biểu lý, chuyên luận sơn cương lai mạch, mà định cát hung.

Tầng số 10 –  Ngũ gia ngũ hành

Ngũ gia ngũ hành là chính ngũ hành, song sơn ngũ hành, bát quái ngũ hành, huyền không ngũ hành, hồng phạm ngũ hành. Thầy phong thủy căn cứ phương pháp tương sinh tương khắc của ngũ hành, phối hợp năm phương vị đối ứng với ngũ hành và tiết khí bốn mùa để luận âm dương tiêu tưởng, phán đoán tình hình long sa thủy huyệt, từ đó mà xác định cát hung của trạch. Thường dùng Bát quái, huyền không ngũ hành lập hướng, tiêu nạp sa thủy, hồng phạm ngũ hành dùng tọa sơn để khởi tuần mộ vận, chính ngũ hành, song sơn ngũ hành và hồng phạm ngũ hành, cả ba phối hợp lại dùng để hành long định huyệt.

Ngũ hành tương sinh: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.

Ngũ hành thương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim



Khóa học Phong thủy IEFA

PHONG THỦY LUẬN NGOẠI HÌNH GIA TRẠCH

www.daihochcm.edu.vn

1. Tuyệt đối không được để đường đâm thẳng vào cửa, gia đình sẽ bất hòa, con đường sẽ mang bệnh tật tai nạn vào nhà, và mang cát khí ra đi.

2. Nhà nằm trên đường hình chữ đinh chủ phá bại, sẽ có tai họa nặng, bởi vì phòng ốc bên trong bị trực xung.

3. Chái nhà giống như chân tay con người, nếu thiếu một bên coi như tàn phế, nhà mà bên phải không có chái thì nữ nhân không tốt, bên trái không có chái thì nam nhân không tốt.

4. Dương trạch (phần từ nền nhà lên trên) có liên hệ mật thiết đến họa phúc, cát hung của đời người, vì trời có thiên vận, đất có địa vận, người có mạng vận, nhà có trạch vận, nền nhà đằng trước cao đằng sau thấp là không tốt, vì khí bị tù hãm.

5. Dương trạch tốt nghĩa là các phương diện được điều hòa cân bằng, vừa đề phòng tai họa, vừa bảo đảm vệ sinh ở chung quanh, , ánh sáng đầy đủ, thông thoáng, yên tĩnh.

6. Khi thiết kế và thi công phải đảm bảo trong nhà đủ ánh sáng, thích hợp cho lòng người thoải mái, sinh hoạt mỹ mãn.

7. Phía bên tả có lưu thủy (sông, dòng chày) gọi là Thanh Long, phía bên hữu có đường dài gọi là Bạch Hổ, Phía trước có ao hồ gọi là Chu Tước, phía sau có gò cao gọi là Huyền Vũ, cuộc đất như vậy được gọi là cực quý…

8. Trước cửa nhìn thẳng có một ngôi nhà trống, nam nữ trong nhà thường than khóc, nghĩa là hay phát sinh những chuyện bất hạnh.

9. Nhà trước thấp sau cao, chủ phú quý, nhà trước cao sau thấp rất bất lợi cho chủ gia, lớn bé trong nhà không có tôn ti trật tự, thường phát sinh những chuyện chẳng lành.


Khóa học Phong thủy IEFA

Thứ Tư, 2 tháng 12, 2015

Lời Cha dặn con trai.


1. Khi chon vợ, con đừng đặt bao nhiêu tiêu chuẩn này kia, cũng đừng nhìn hình mẫu như Mẹ của con. Ngày cưới Cha, Mẹ con chỉ là một người bình thường, còn rất nhiều khiếm khuyết, quan trọng con phải là một người đàn ông trưởng thành trong suy nghĩ, vợ con từ đó cũng sẽ trở nên hoàn hảo hơn.

2. Yêu ai thì phải nói, đàn ông mà không chủ động được trong tình yêu thì cũng không làm nổi việc gì.

3. Khi con chưa qua tuổi 30, chưa có người yêu thì vẫn rất bình thường. Cha chỉ sợ 30 tuổi con vẫn lông bông chưa rõ nghề nghiệp lâu dài của mình. Còn tình yêu à, lúc nó chưa đến con hãy hưởng thụ cuộc sống riêng. Nhưng nhớ, đừng để độc thân quá lâu con trai ạ!

4. Rồi sẽ có lúc con phân vân giữa nhiều cô gái, yêu cô xinh đẹp hay cô hiểu mình? Con ạ, lúc đó hãy nhớ giữ lấy cô gái nào từng làm con khóc.

5. Hãy tìm một cô gái thường cằn nhằn con về cách con tiêu tiền, thường giận con về những lí do rất vớ vẩn. Một người vợ để chung sống cả đời cần những “tính xấu” như thế.

6. Cuộc đời con sẽ gặp nhiều người phụ nữ, có người sẽ muốn bên con trọn đời nhưng sẽ có không ít người chỉ muốn nhìn vào ví tiền của con. Nếu người muốn gắn bó với con cả đời cô ấy sẽ chăm sóc cuộc sống của con, còn người suốt ngày lo tình cảm của cô ấy thì chỉ nhìn vào ví tiền.

7. Khi yêu một người phụ nữ thật lòng, họ có thể khóc vì con, tủi thân, giận dỗi nhưng đừng để người phụ nữ ấy im lặng. Bởi khi phụ nữ đã im lặng họ sẽ rời xa con đấy.

8. Và điều cuối cùng, đừng bao giờ giơ tay đánh phụ nữ con nhé!

Mệnh học và tướng học


 
Ngày xưa khi tôi bắt đầu học về Phật học và các môn thuật số. Thì một người thầy của tôi đã từng nói: “Mới bắt đầu học Đạo, chớ nên vội học về tướng”. Lúc xưa tôi cũng không hiểu tại sao lại như vậy. Hóa ra là vì “nhân vô thập toàn” – căn cứ vào nhân tướng thì không cách nào ta kiếm ra được người toàn vẹn đủ mười phần về các hảo tướng cả. Chỉ trừ những bậc thánh nhân như đức Phật hoặc các vị giác ngộ gồm 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp tùy hình. Do thấy ai xung quanh cũng có điểm xấu, ác mà những người mới tu hành khó lòng có thể khởi tâm yêu thương, trân quý họ được.

Tại sao vậy, vì tướng là thể hiện của tâm. Tướng tùy tâm sinh, tâm tương ứng như thế nào thì hiện tướng ra như thế đó. Đã ở trong cuộc sống này thì ít nhiều tâm tư ai cũng có những điểm chưa thiện lành trong tâm, do vậy mà tướng cũng theo đó mà có nét phá tướng, nét xấu, nét hãm…

Nhưng sau này, tôi cũng hiểu là phải đến một giai đoạn nhất định thì những môn thuật số này cũng có giá trị nhất định trong việc giúp ta tu hành. Vì sao, vì nó giúp ta thấu hiểu tâm tư của người khác, từ đó mà biết thứ phù hợp với họ để dẫn dụ họ khởi phát những thứ thiện lành trong tâm và giải trừ những mối lo âu, phiền não trong họ cũng như xung quanh họ. Không vì như vậy, tại sao trong bộ “Tọa Thiền Chỉ Quán” của Trí Khải Thiền Sư, sáng tổ Thiên Thai Tông có dạy về cách xem tướng của người tu dùng để nhận biết và đối trị các loại phiền não. Hay trong các bộ Mật Điển có dạy về cách phân định các phẩm tính của hành giả phù hơp với thực hành bộ nào.

Lại lạm bàn một chút về Mệnh và Tướng. Như trong môn Tử Vi có nói Cự Môn – Hóa Kỵ thủ mệnh là người miệng méo, thích sự thị phi, khẩu thiệt, tranh cãi… Đến hạn thường thì gặp họa sông nước, chết chìm. Nghe thấy có vẻ vô lý nhưng thật ra không hề vô lý chút nào. Theo Tướng học mà nói, tướng quý ở chỗ trung chính, không thiên lệch. Miệng méo, đa phần là người thích sự lệch lạc, gieo rắc sự thị phi…

Thị phi chính là một dạng ganh tỵ và đố kỵ, gốc rễ của chúng không gì khác từ cái tâm tham lam, cái bản ngã coi thường những người thấp hơn ta và không chịu được sự vượt trội của người khác hơn mình. Cái tâm tham này như trong kinh Phật đã nói, sớm muộn gì cũng chiêu cảm thủy tai đến với ta – tai họa liên quan đến sông nước, ẩm ướt…

Do vậy, những ai mệnh có Cự – Kỵ đồng cung hoặc nhân tướng miệng không được trung chính thì nên biết rằng mình đã có cái nhân thị phi sẵn rồi, cần ráng nên tu hành tịnh hóa khẩu nghiệp. Tương tự như thế, những người mà ta thấy họ có những thứ như trên thì cũng chớ có vì đó mà phiền não vì họ hay tìm cách “lại quả” họ, cũng như không tạo thêm nhân duyên cho họ có thể phát huy khả năng đó của mình.

Vài điều chiêm nghiệm vào đêm cuối tuần.
Chúc cho tất cả một ngày hạnh phúc, một đêm an bình.
~ Tử Minh

Khóa học phong thủy ứng dụng tại Trường IEFA

Khoa hoc phong thuy ung dung tai truong IEFA



Những "bí kiếp" trong phong thủy!!!!?

www.daihochcm.edu.vn

Gần đây tôi được gặp nhiều người liên quan đến ngành nghề Bất Động Sản. Cũng đúng thôi, Phong Thủy thì phải liên quan đến Bất Động Sản chứ nhỉ. Sau khi biết được tôi là người tư vấn Phong Thủy, họ thường khen rằng: “Phong Thủy hiện giờ là rất hợp thời!!!”

Thực ra mà nói, gần như mọi ngành nghề (trừ những ngành nghề Khoa Học quá tân tiến, và các ngành công nghệ mới) đã tồn tại từ xưa đến giờ. Tuy nhiên hợp thời hay không, có phát triển tốt được hay không thì lại là một chuyện khác. Nếu nghiên cứu kỹ lưỡng về lý thuyết dịch lý thì chúng ta sẽ dễ dàng biết được khuynh hướng đó được hình thành ra sao.

Cho đến hiện giờ, nhiều người vẫn nghĩ rằng Phong Thủy là một thứ  gì đó mang tính mê tín, kì bí. Người ta vẫn chưa thấy được tính khoa học và nghệ thuật, tính minh triết trải dài trong hàng ngàn năm tiến hóa của nhân loại trong bộ môn này. Như tôi đã nói ở các bài trước, chắc chắn phép màu của Phong Thủy sẽ diễn ra nếu nó được đi kèm với sự nỗ lực của chính bản thân chúng ta. Thế mà có nhiều khách hàng của tôi, dù đã được giải thích rất kỹ lưỡng, nhưng họ vẫn trông chờ vào một phép màu “tự động xuất hiện” của Phong Thủy.

Như chúng ta đã biết, làm việc gì cũng phải toàn tâm toàn ý thì mới có thể đem lại kết quả tốt đẹp được. Những việc thông thường như học khiêu vũ, nấu ăn… mà chúng ta còn phải gia công học tập, nghiên cứu mới có thể đem lại những kết quả tốt đẹp hà huống là Phong Thủy, tinh hoa minh triết hàng ngàn năm của nền văn hóa cổ đại.

Muốn học Phong Thủy trước hết chúng ta phải có niềm  đam mê sâu sắc với môn nghệ thuật này, điều kế đến là phải có một kiến thức thực sự rộng lớn trong mọi lĩnh vực. Chưa kể là một tâm tư thuần tịnh hướng thoát khỏi những mưu cầu vật chất thế gian. Sau đó là rất nhiều năm tháng học tập, thực hành và chiêm nghiệm mới có thể gọi là biết về Phong Thủy được.

Có lẽ vì Phong Thủy hợp thời, mà tôi thấy hiện giờ nhiều người,  nếu nặng, thì sau khi đọc một vài cuốn sách về Phong Thủy đã vội vàng cầm la bàn đi xem Phong Thủy cho người khác. Điều này thật rất tai hại cho cả người nhờ họ xem và bản thân họ. Nhẹ hơn một chút, thì họ bàn tán về Phong Thủy một cách rất “chuyên nghiệp” cho những thính giả của mình. Lớp thính giả này lại tiếp tục giúp cho Phong Thủy càng kì bí hơn bằng cách tận tâm truyền thụ những thông tin này cho người khác.

Tôi từng được gặp một đệ tử  tự xưng chân truyền về Phong Thủy phát biểu rằng: “Nhà hướng Nhâm (một phần của hướng Bắc) là hướng con cái đỗ đạt, làm quan ngày xưa còn bây giờ là làm giám đốc”.

Thú vị thật, có lẽ tôi phải sớm mua một căn nhà hướng Nhâm để lo đường quan lộ cho những thế hệ sau này của tôi… Và đầy tin tưởng rằng chúng sinh ra đã là để làm giám đốc, mà không cần phấn đấu!!?

Khóa học phong thủy ứng dụng tại Trường IEFA

Khoa hoc phong thuy ung dung tai truong IEFA



16 cách tự xem phong thủy cho nhà bạn


Không quá khó khăn để có được một ngôi nhà vừa đẹp vừa hợp lý về phong thuỷ cả, chỉ cần bạn tuân theo 16 chỉ dẫn đơn giản dưới đây là hoàn toàn tự mình có thể xem phong thuỷ cho ngôi nhà

1. Đứngtrước cửa nhà, nhìn ra ngoài và xem xem có công trình lớn hoặc chướng vật đối diện với bạn, đồng thời sản sinh "ám tiến sát" trong phong thuỷ học. Vệ tinh, dây điện của hàng xóm, cột dây điện trên đường, tháp nhọn của nhà thờ, hoặc 1 con đường dài vừa đúng hướng vào cửa chính nhà bạn - những thứ này đều được gọi là "ám tiến sát".

Nếu như có bất cứ vật "ám tiến sát" nào đối diện với cửa chính nhà bạn, thì phương pháp hoá giải  đơn giản chỉ là đặt trước của 1 chiếc gương bát quái hướng ra ngoài.

2. Dùng phương pháp trên để kiểm tra tầm nhìn cửa sau và các loại cửa sổ - tương tự như cửa chính.

3. Đứng trước cửa nhà, bạn dùng la bàn để kiểm tra vị trí của căn nhà. Bạn có thể dùng loại la bàn kim chỉ nam nam đồng quân hoặc loại tinh xảo như la bàn Trung Quốc (la kinh), nhưng bạn nhất thiết phải làm sao cho hướng kim chỉ Bắc trùng với điểm chính Bắc. (nếu như trong tay không có la bàn, bạn cũng có thể dùng bản đồ đường đi để tìm ra hướng căn nhà bạn). Viết lại kết quả này, và sau đó so sánh với phương hướng tốt nhất của bạn.

4. Kiểm tra lối ra vào nhà bạn, chắc chắn không có bất cứ đồ vật gì ngăn chặn luồng khí đi vào lưu thông, ngoài ra luồng khí từ ngoài vào cần phải tập trung trong căn nhà một cách nhanh nhất. Trước cửa trong ngoài sáng sủa rộng rãi, bởi vậy cần di dời bất cứ vật chặn nào.

5. Phác hoạ  sơ đồ căn nhà của bạn. Đặt biểu đồ bát quái lên trên, dung phương hướng la bàn sao cho đúng. Bộ phận màu xanh đại diện cho sự nghiệp đặt ở hướng Bắc, màu đỏ đại diện cho danh tiếng thì đặt ở hướng Nam.

6. 8 phương vị trong bát quái đại biểu cho " nhân sinh bát đại dục cầu". Gia đình, tiền tài, danh lợi, hôn nhân, con cái, quý nhân, công việc và tri thức. Bạn hãy chọn lựa 1 trong những phương diện mình mong muốn cải thiện. Ví dụ, nếu như muốn gia tăng tiền tài, phương vị đối ứng là Đông Nam. Bạn kiểm tra bát quái của mình, tìm ra Ngũ hành đối ứng với phương Đông Nam là Mộc. Bạn có thể theo đó mà đặt đồ có liên quan đến mộc ở hướng Đông Nam (như là lẵng hoa). Bạn cũng có thể dựa vào Thuỷ để tăng năng lượng phương hướng này, bởi vì Thuỷ sinh Mộc. Dựa theo bát quái đồ, bạn có thể tìm ra ý nghĩa biểu tượng của các phương hướng. Nhưng trước khi làm điều này thì cần phải nhớ, là không nên tăng năng lượng quá nhiều hướng trong cùng một lúc, không thì sẽ xuất hiện rất nhiều sai lầm lặp lại, hoặc là cơ may đến mà bạn không cách nào ứng phó.

7. Nếu như nhà bạn không phải hình vuông hoặc chữ nhật, thì cần xem lại nhà bạn bị khuyết ở góc nào. Góc khuyết biểu tượng cho 1 phương hướng nào đó trong bát quái không cách nào đối ứng với căn nhà. Lấy ví dụ, nếu như nhà bạn là hình chữ L, sẽ xảy ra hiện tượng như trên. Nếu bạn cảm thấy phương vị này đối với bạn rất quan trọng, thì bạn nên dung gương tạo lại phương vị đó

8. Kiểm tra nhà bếp. Bạn đứng ở vị trí khu chuẩn bị đồ ăn, cần chắc chắn rằng lưng bạn không quay ra cửa.
 
Nếu có, xin hãy sửa lại nhà bếp, để cho bạn vừa có thể chuẩn bị đồ ăn vừa có thế nhìn thấy cửa. Ngoài ra cần chắc chắn rằng nguyên tố nước trong nhà bếp không có xung đột với hoả hành. Nói cách khác, là làm sao cho bếp ga không trực tiếp nằm ngay cạnh vòi nước hoặc tủ lạnh. Nếu có, xin hãy đổi vị trí của những đồ vật đại diện cho thuỷ hành (bể rửa bát, tủ lạnh) hoặc hoả hành ( bếp ga). Cuối cùng, kiểm tra hướng bếp ga có hướng về phương vị tốt nhất của bạn hay không.
 
Khi thiết kế cần tránh không nên để khu vực bày biện quay lưng lại với cửa

9. Kiểm tra lại phòng ăn hoặc phòng nghỉ. Hãy thử đặt 1 tấm gương to phản chiếu đồ ăn trên bàn, để từ đó nhận được hiệu quả "gia tăng tài phúc"

10. Kiểm tra phòng ngủ. Xác định trên giường có treo bất cứ vật gì không, hoặc là những thứ khiến cho bạn cảm thấy bị áp lực như bức tranh dày nặng hay tủ áo to. Lúc ngồi ở trên giường, cần chắc chắn rằng bạn không thể nhìn thấy chính mình qua bất cứ chiếc gương nào. Nếu có, bạn có thể di dời gương, hoặc che gương lại, hoặc đem gương đặt ở 1 nơi xa phòng ngủ.

11. Kiểm tra vị trí nhà tắm hoặc nhà vệ sinh. Đây là một bước vô cùng quan trọng, bởi vì 2 phòng đều là nơi nước từ nhà bạn trôi ra. Xác định xem nó có nằm ở vị trí quan trọng trên bát quái không. Ví dụ, nếu như nhà vệ sinh nằm ở hướng Tây Nam, thì nó sẽ có ảnh hưởng đến các mối quan hệ của bạn. Bởi bì căn phòng này đem nước chảy ra khỏi căn nhà, và cũng đem theo cả khí và năng lượng. Nếu như nhà vệ sinh ở bán Tây thì sẽ ảnh hưởng tới vận khí của trẻ. Ngoài ra nếu như căn phòng " khí ẩm thấp nặng nề" này mà nằm ở phương vị quan trọng với bạn thì nên thử đóng cửa nhà vệ sinh, đậy nắp bồn cầu, hoặc che cửa căn phòng lại, sử dụng phương pháp này có thể "làm cho căn phòng biến mất".

12. Nếu như nhà có vườn hoa: cần chắc chắn rằng bất cứ lối đi nào đều không đâm thẳng vào cửa chính nhà bạn, bởi vì trông nó giống như mũi tên đâm thẳng. Khi bạn đã có trang bị kiến thức phong thủy, có thể xây thêm bể nước, đương nhiên với điều kiện là vị trí đúng.

Bạn đã biết phương vị nhà và vườn hoa, giờ đây bạn cần tìm ra phương vị tốt cho riêng bạn, điều này có liên quan đến việc bố trí sắp đặt đồ gia dụng nội thất nhà bạn.

13. Tính Quái số của bạn để tìm ra phương vị đại cát (sinh khí), phương vị sức khỏe đại cát (thiên y), phương vị gia đình trung cát (duyên niên) , phương vị tiểu cát  (phục vị)

14. Đặt đầu giường hướng về Đại cát. Nếu như không được, thì bạn có thể chọn 1 trong 3 phương vị còn lại. Nếu như bạn không được khỏe lắm thì nên hướng về phương vị Thiên y. Đương nhiên 2 vợ chồng khôn nhất thiết phải có cùng 1 phương vị tốt nhất, nhưng để đạt được hạnh phúc trong hôn nhân thì nên dựa theo phương vị của bạn nữ.

15. Điều chỉnh phương vị nơi làm việc của bạn. Nếu nhà có phòng làm việc, thì để bàn và ghế đối diện với phương vị Sinh khí. Phương pháp này cũng nên dung với văn phòng làm việc. Ngoài ra ở nơi làm việc lưng không được quay ra cửa. So với việc đối diện với Sinh khí thì việc nhìn thấy cửa văn phòng còn quan trọng hơn.

16. Bàn ăn hoặc ghế ăn đối diện với phương vị tốt nhất của bạn. Bạn có thể dựa theo những gợi ý trên để sắp xếp lại nhà sao cho phù hợp với phong thủy và môi trường sống thuận lợi nhất. Không nên một lần thay đổi quá nhiều, nhất là khi trong nhà có sản phụ.

Khóa học phong thủy ứng dụng tại Trường IEFA

Khoa hoc phong thuy ung dung tai truong IEFA

Địa Huyệt


khoa hoc phong thuy tai IEFA
Huyệt vị thượng thặng được gọi là “Phong thủy bảo địa”, về địa hình có những đặc điểm nhất định, nói chung là lấy huyệt vị làm trung tâm

Cấu trúc cơ thể con người mang theo những thông tin của cấu trúc trời đất, có đại tiểu chu thiên, có mạch lạc và huyệt vị, trái đất cũng như vậy, trái đất cũng có mạch lạc, gọi là long mạch, có huyệt vị, gọi là địa huyệt

Trong “Đạo Đức Kinh” có nói: “Nhân Pháp Địa, Địa Pháp Thiên” (Người thuận theo đất, đất thuận theo trời), Đạo gia coi cơ thể con người là một tiểu vũ trụ, vậy thì vũ trụ cũng chính là cơ thể con người cỡ lớn, cùng lẽ đó, vậy thì liệu trái đất có phải là một sinh mệnh? Cấu trúc cơ thể con người mang theo những thông tin của cấu trúc trời đất, có đại tiểu chu thiên, có mạch lạc và huyệt vị, trái đất cũng như vậy, trái đất cũng có mạch lạc, gọi là long mạch, có huyệt vị, gọi là địa huyệt. Trên long mạch có thần, trên huyệt vị có thần. Thần căn cứ vào quy luật vận hành của trời đất, vâng theo ý chỉ của trời, lợi dụng huyệt vị của đất, hình thành nên hợp cục “thiên địa nhân”, khai thông con đường trên dưới “thiên địa nhân”, nhờ vậy mà làm cho tam tài thiên địa nhân vận hành một cách nhịp nhàng. Học thuyết  “thiên nhân hợp nhất” cũng ra đời từ đó, nói chính xác hơn thì phải là thiên địa nhân hợp nhất.

Huyệt vị thượng thặng được gọi là “Phong thủy bảo địa”, về địa hình có những đặc điểm nhất định, nói chung là lấy huyệt vị làm trung tâm, hiển lộ cách cục lưng tựa núi mặt hướng sông, núi quây vào hộ vệ trái phải, thuật ngữ chuyên nghiệp gọi lưng tựa núi là Lai long, cũng tức là Huyền vũ; núi quây vào hộ vệ bên trái là Thanh long; núi quây vào hộ vệ bên phải là Bạch hổ; Đường cục của bản thân huyệt vị gọi là Nội đường cục, bên ngoài huyệt vị là Đại đường cục, trong Đại đường cục cần có con sông uyển chuyển chảy qua, vùng đất phụ cận trước huyệt vị có gò đồi thấp là
Án sơn, núi cao ở phương xa  là Triều sơn.

 
“Thái tổ sơn” là chỉ ngọn núi phát nguyên từ chỗ kết huyệt đi về phía sau theo long mạch, thông thường là ngọn núi cao nhất trong vùng, đi xuống thì còn gọi là “Thiếu tổ sơn” cấp một. “Phụ mẫu sơn” là ngọn núi phía sau núi kết huyệt đi dọc theo điểm xuất phát của long mạch, “Huyệt tinh” nói chung là chỉ núi kết huyệt, chính là ngọn núi có huyệt vị của địa huyệt.

“Thanh long sa” là chỉ sườn núi hoặc ngọn núi nằm phía bên trái huyệt vị,

“Bạch hổ sa” là chỉ sườn núi hoặc ngọn núi nằm phía bên phải huyệt vị, đương nhiên còn có các cách nói “Thủy khẩu sa”, “Hạ thủ sa”.

Án” là chỉ ngọn núi gần đó phía trước huyệt vị, thông thường có hình dáng cái giá để bút hoặc hình dáng cái yên ngựa, “Triều” chỉ những ngọn núi ở phía trước cách xa huyệt vị, nói chung Triều sơn nằm sau Án sơn. “Cách cục” cũng gọi là “Đường cục” là chỉ những ngọn núi trên hình thành nên một chỉnh thể, nhìn một cách thống nhất sẽ có cục thế của bản thân mỗi “huyệt vị”, cục thế lớn nhỏ, tốt xấu trực tiếp dẫn đến phẩm cấp huyệt vị cao thấp. Một huyệt vị ít nhất cũng phải nhập phẩm thì mới có thể có “cách cục”, cũng giống như người đời sau ít nhất cũng phải có phúc phận giàu có ngang với “thất phẩm huyện quan” thì mới được coi là “nhập cách cục”. Đương nhiên, một cục thế không phải chỉ tạo ra một huyệt vị, có thể sẽ có mấy chỗ kết huyệt. Mỗi “kết huyệt” có thể rộng tới mấy chục dặm, trên trăm dặm hoặc rộng hơn, nhỏ thì có thể chỉ có mấy ngọn núi thậm chí một ngọn núi, và có thể trong cách cục lớn có cách cục nhỏ, trong cách cục nhỏ có cách cục nhỏ hơn.
Quảng cáo

Địa huyệt phân thành đẳng cấp, nhiều người đều biết điều đó. Nó có hai tầng lớn: một là tầng thế gian; hai là tầng xuất thế gian.

Tầng thế gian na ná như sự phân chia đẳng cấp quan lại thời cổ Trung Quốc, cũng chia thành các đặc điểm văn, võ, trung chính cửu phẩm. Thời cổ Trung Quốc rất nhiều đại thần phụ tá cho Hoàng đế đều là người tu luyện, biết việc trời đất cho nên đã đưa một số hệ thống của trời đất vào dùng trong nhân gian, sự phân chia đẳng cấp quan lại là như vậy. Ở trên nói rằng “thất phẩm” mới gọi là nhập cách cục, bởi vì “thất phẩm huyện lệnh” đã tự xử lý một mặt, độc lập làm chủ, còn bát phẩm, cửu phẩm chưa yêu cầu tự xử lý, chỉ phụ trợ cho thất phẩm, cho nên không có cách cục đơn độc.

Địa huyệt ngoài đặc điểm văn võ khác nhau ra, sự phân chia đẳng cấp chủ yếu lấy đạo đức làm tiêu chuẩn cân nhắc. Trung Quốc thời cổ ngoài chế độ khoa cử, việc tuyển chọn quan lại còn một con đường nữa gọi là cử “hiếu liêm”, nghĩa là địa phương nào có người hiếu thuận với cha mẹ, nhân phẩm cũng rất liêm khiết, nhân dân trong vùng đều ca ngợi, quan viên địa phương sẽ tiến cử anh ta, sau khi Hoàng đế cho người đến khảo sát, nếu quả đúng như vậy thì sẽ cất nhắc anh ta làm quan. Hiếu thuận, liêm khiết là cái biểu hiện ra bên ngoài của một người có đạo đức, ngày xưa triều đình lấy cái đó làm tiêu chuẩn cân nhắc để khảo sát quan viên. Phương thức này đã từng là cách tuyển chọn quan viên chủ yếu của vương triều nhà Hán hùng mạnh.

Ở tầng xuất thế gian thực ra không thể gọi là Phong thủy nữa, nói chuẩn xác hơn thì không còn là khái niệm Phong thủy mà bách tính dân gian hiểu nữa, hàm nghĩa đó đã không thể bao quát hết nội hàm rộng lớn trong đó. Thậm chí rất nhiều tên không gọi là huyệt nữa, mà gọi là “vị” hoặc “tọa”, Phật tọa, liên đài v.v. là tên gọi của Tiên, Phật, Thánh nhân không liên quan gì đến con người nữa.

Giữa tầng thế gian và tầng xuất thế gian còn có một số phẩm cấp đặc biệt. Trên nhất phẩm tột cùng của cửu phẩm là Đế hoàng đại địa, cũng gọi là Thiên tử địa. Đế hoàng đại địa quan hệ tới cách cục thiên hạ, chịu sự sắp đặt nghiêm ngặt của trời, người hoặc gia tộc không lãnh mệnh trời, không chịu mệnh ở trời thì hoàn toàn không thể nào có được nó. Tương truyền rất nhiều vị hoàng đế đều do các thiên thần được an bài xuống hạ giới làm, cho nên hoàng đế ngày xưa gọi thiên tử. Dù là Đế hoàng địa hay Thiên tử địa cũng đều là cách gọi của dân chúng bình thường, kỳ thực danh xưng đích thực không phải gọi như vậy, sinh mệnh cao cấp ở không gian khác gọi chỗ đất có đẳng cấp và loại hình này  là “càn khôn địa”. Chỗ đất cho ra đời một hoàng đế hoặc một triều đại thì gọi là “càn khôn địa”. Từ trước đến nay, có thể cho con người cũng chỉ có như vậy.

Nước Trung Hoa 5000 năm nay, từ Hạ Thương Chu cho đến triều Thanh, có thể gọi là triều đại thì cũng chỉ lèo tèo khoảng mười dòng họ, giữa chừng lại ở vào tình trạng chia năm xẻ bảy, như Tam quốc, Ngũ đại thập quốc v.v.

Chữ “triều (朝)” trong Giáp cốt văn gồm hai cây cỏ nhỏ, mặt trời mặt trăng lặn mọc  một cách tự nhiên, thời gian càng lâu chúng vận hành thuận theo ý trời; chữ “đại (代)” gồm nhân(人)+dặc(弋), thời cổ “dặc” chỉ chiếc côn gỗ trên cây giáo (戈), cái lưỡi kim loại không hỏng nhưng chiếc côn gỗ thì phải thay thường xuyên, cho nên “đại” ngụ ý là thay người, còn “triều” thì rất dài, Hoàng đế trong đó thì mỗi đời lại thay đổi người khác; “quốc (國)” nghĩa là trong một vùng đất một người cầm cây giáo giơ lên, chỉ phạm vi lãnh thổ mà người ta dùng vũ lực chinh phục được. Xét về thiên ý và phạm trù đạo đức thì “triều” cao hơn “đại” và “quốc”. Quân chủ của “triều” được gọi là “hoàng (皇)”, còn quân chủ của “quốc” được gọi là “vương (王)”. Trên đất Thần châu cái được gọi là “quốc” thời gian đều không dài.

Ở tầng thế gian có những cái tồn tại rất đặc biệt, chúng chẳng kém gì càn khôn địa, đối ứng với thế gian con người, chúng ta có thể biết có rất nhiều gia tộc lớn kéo dài rất lâu, thậm chí vượt qua cả các gia tộc đế hoàng như Lý Đường, Triệu Tống v.v., chẳng hạn gia tộc họ Khổng kéo dài hơn 2000 năm, vì Khổng Tử truyền bá Nho học chấn hưng giáo dục, tích đức rất lớn, nên phúc kéo dài tới con cháu đời sau; lại còn gia tộc Trương Thiên Sư không những kéo dài hơn ngàn năm mà còn có rất nhiều người tu luyện, đó là chuyện rất khác thường.

Càn khôn địa lấy “quý” làm đặc điểm chủ yếu để phân biệt và hiển lộ ra. Gia tộc họ Khổng thì lấy “phúc” làm đặc điểm chủ yếu để hiển lộ, còn gia tộc Trương Thiên Sư lại một trường hợp khác, hiển lộ bởi “tu luyện địa”. Cho nên tiêu chuẩn phân biệt lấy “quý” làm đặc điểm chủ yếu không thể gom tất cả lại một cách lộn xộn để đánh giá địa huyệt nào tốt, địa huyệt nào không tốt.

Đương nhiên, chúng ta biết rằng, rất nhiều địa huyệt vừa có “quý” vừa có “phúc“, hoặc những đặc điểm khác. Ví dụ một địa huyệt nào đó, đặc điểm nó cho biết là “phú quý linh tiên”, như vậy địa huyệt này rất có thể sẽ cho ra đời bốn chi phái, trong đó một chi phát “phú”, một chi phát “quý”, một chi phát “linh”, nghĩa là khá linh thông, kiểu như trường hợp các thuật sỹ giang hồ, còn một chi sẽ sinh ra những người tu luyện; cũng có thể địa huyệt này sẽ cho ra đời một chi hoặc một người gồm đủ bốn đặc điểm “phú quý linh tiên”.

Có người nói, phú quý ư? Có phú thì có quý, có quý thì có phú, hai cái chẳng phải là một đó sao? Thực ra không phải, nếu trời xác định anh gồm cả hai đặc điểm “phú, quý”, thì anh sẽ vừa phú vừa quý; nếu trời xác định anh chỉ có một đặc điểm, ví dụ “quý” chẳng hạn, vậy thì anh đúng là chỉ có quý thôi Chúng ta biết rằng thời xưa Trung Quốc có rất nhiều thanh quan, nhiều người làm quan tới ngôi vị rất cao, thậm chí quan vị tới cực phẩm, nhưng thanh bần nghèo rớt, nhà chỉ bốn bức vách, sử sách ghi chép tới lúc chết không mua nổi một quan tài tôn tốt một chút.

Phú cũng vậy, quý cũng vậy, là do trời sắp đặt, mạng anh có thì sẽ có, không thể có sức truy cầu. Là của anh, anh cứ đường đường chính chính, bằng nỗ lực gian khổ, tự nhiên sẽ đạt được. Trong lịch sử thân phận, địa vị của những vị thanh quan kia, nếu họ muốn giàu có chẳng phải là chuyện hết sức dễ dàng sao? Nhưng họ làm việc một cách công tâm, chỉ nhận bổng lộc nhà nước ban cho, cái mà ngày nay chúng ta gọi là “lương”, thu nhập đường hoàng quang minh. Đó là thu nhập chính đáng không có bất cứ vấn đề gì mà họ có được, sau khi đã làm hết chức trách, đã cống hiến một cách cực nhọc cho công việc. Có một số người vừa phú vừa quý vì đã lập công lớn, được Hoàng đế hoặc triều đình đặc biệt tặng thưởng, “phú quý” đó là chính đáng.

Những người làm quan mà trong số mạng chỉ có “quý”, nhưng xuất phát từ lòng dạ và dục vọng, lợi dụng chức quyền mưu giành lợi ích riêng tư, bây giờ gọi là thu nhập mờ ám, vì vậy mà trở nên giàu có, đó là những kiếm chác không chính đáng, vậy nên phải dùng phúc đức của mình hoán đổi. Bằng việc tiêu mòn phúc đức của mình để đổi lấy loại thu nhập không chính đáng này, một khi phúc đức đã hao mòn đến một mức độ nhất định thì sẽ có chuyện xẩy ra, hoặc sự việc bại lộ bị bắt, hoặc bị chết thì đời sau phải trả. Hãy xem người ăn mày ngoài phố, đừng thấy bây giờ anh ta thê thảm như thế, rất nhiều đời trước đây đều là quý nhân quan cao chức trọng, sống xa hoa dâm đãng trên ngọc ngà nhung lụa. Cho nên cổ nhân thường nói chuyện hành thiện tích đức để kiếp sau đầu thai có được cuộc sống tốt đẹp là có lý.

Nhưng dù lấy đặc điểm nào để phân biệt tầng thứ đẳng cấp, thì tiêu chuẩn đánh giá căn bản nhất vẫn là đạo đức. Tầm mức đạo đức càng cao thì phúc phận càng lớn, thời gian gia tộc hưng thịnh theo đó kéo dài càng lâu.

Ở vùng tây nam Trung Quốc có một gia tộc thổ ty, ông tổ là Dương Đoan đời Đường từ Thái Nguyên đến Bá Châu vùng tây nam Trung Quốc. Gia tộc này được trời chỉ định thống trị 600 năm, cho tới thời kỳ đầu nhà Minh, vì gia tộc này nhiều đời nay tích đức hành thiện, phúc trạch phổ nhuận một phương. Cháu 13 đời của Dương Đoan là Dương Xán cũng công lao rạng rỡ, không những có công khai phá mở mang cương thổ mà còn giáo hóa trăm họ. Sử sách chép rằng: “Tính ông hiếu thảo, yêu mến bạn bè, an nhiên kiệm ước, điều hành chính sự khoan hòa đơn giản, làm cho dân chúng được dễ dàng thuận tiện”. Vùng Bá Châu do ông cai quản “phong tục địa phương đã có nhiều thay đổi”, “nghiễm nhiên sánh vai với văn vật vùng trung thổ”. Trời cảm động trước công tích của gia tộc nên đã tưởng thưởng cho gia tộc này kéo dài thêm hơn một trăm năm nữa. Cho tới năm Đại Lịch nhà Minh người nắm quyền hành đời cuối cùng của gia tộc này là Dương Ứng Long làm phản, bị triều đình nhà Minh sai đại tướng Lý Hóa Long mang quân tiêu diệt mới kết thúc, tổng cộng tới hơn 700 năm.

Rất nhiều thầy Phong thủy tu luyện đắc đạo thường có thể tiếp xúc với huyệt vị có đẳng cấp cao, địa linh thần sẽ cho biết huyệt vị này có thể chủ quản một triều đại 7 , 8 trăm năm, hơn một ngàn năm, mấy ngàn năm, thậm chí hơn vạn năm. Điều đó thật kỳ lạ, phải biết rằng, trong lịch sử Trung Quốc nhà Chu là triều đại lâu nhất thì cai trị thiên hạ cũng không quá 8 trăm năm, vậy thì những huyệt vị vừa nói kia là thế nào? Chẳng lẽ thời gian huyệt vị chủ quản triều đại càng ngắn thì tầng thứ và năng lực của nó cũng theo đó mà càng thấp sao? Thực ra cũng không chắc. Ở đây còn liên quan đến vấn đề thiên mệnh, ví dụ một địa huyệt chủ quản triều đại nào đó trong lịch sử Trung Hoa, có thể chẳng phải tầng thứ huyệt vị đó không đủ, năng lực không đủ, mà là thiên mệnh an bài chỉ có ngần ấy năm, vậy nên có thể chỉ sử dụng một phần tầng thứ và năng lực đối ứng trong đó để tạo ra tác dụng, phần dư thừa sẽ giữ lại đó mà thôi.

Còn một nguyên nhân nữa là xã hội loài người có sự tồn tại những chu kỳ văn hóa khác nhau, giới khoa học chúng ta ngày nay gọi nó là “văn minh tiền sử”. Ngày nay nhiều phát hiện khảo cổ đã chứng minh sự tồn tại của văn minh tiền sử của loài người, hơn nữa không chỉ một lần, nhiều lần sau khi nền văn minh bị hủy diệt, chỉ còn lại một số ít người và lại sáng tạo ra nền văn minh mới. Điều đó nhìn từ góc độ Phong thủy là sự thật, tầng đất này gọi nó là “đại càn khôn địa”, trên “càn khôn địa” chỗ đất thống lãnh một thời kỳ văn minh thì gọi là “đại càn khôn địa”. Có một số nền văn minh tiền sử, có thể thời gian tồn tại rất dài, trong đó có thể có những triều đại tồn tại hơn một ngàn năm, mấy ngàn năm, thậm chí hơn vạn năm.

Khóa học phong thủy ứng dụng tại Trường IEFA

Khoa hoc phong thuy ung dung tai truong IEFA